Vũ Chí Hùng là ai? chắc chắn là tìm kiếm nóng này đề cập đến Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế rồi, dù có rất nhiều người tên Vũ Chí Hùng.
Ông Hoàng Mười giáng thế thành Nguyễn Xí
Xem chi tiết về mẫu Tượng Ông Hoàng Mười trên
Câu chuyện về việc Ông Hoàng Mười giáng thế xuống thế gian và trở thành tướng quân Nguyễn Xí là một truyền thuyết nổi tiếng. Nguyễn Xí là một vị tướng tài trợ giúp vua dẹp loạn và chống lại quân Minh xâm lược. Vua trọng dụng Nguyễn Xí và giao cho ông nhiệm vụ quan trọng là trấn giữ vùng đất quê nhà, bao gồm cả Nghệ An và Hà Tĩnh.
Nguyễn Xí nổi tiếng với lòng nhân ái và tấm lòng trắc ẩn với nhân dân. Ông luôn hết lòng vì dân, chăm sóc cho họ trong mọi hoàn cảnh. Khi vùng đất gặp khó khăn và thiên tai, ông đã mở kho cứu trợ và gửi quân đốn gỗ để xây nhà cho nhân dân.
Trong một lần đi thuyền trên sông, thuyền của Nguyễn Xí bị đắm trong một trận phong bão và ông đã hy sinh trên sông Lam. Lúc đưa tiễn ông, trên trời bỗng nổi lên một đám mây ngũ sắc, hình thành thành hình xích mã, tượng trưng cho sự rước ông về thiên đàng.
Vua Lê Thánh Tông, thấy lòng tôn kính và biết ơn trước công lao của Nguyễn Xí, đã truy tặng ông danh hiệu Thái sư cường quốc công và sai lập đền thờ tại Thượng Xá để tôn vinh ông.
Nhân dân vùng này, cảm kích sự hi sinh và lòng nhân ái của Nguyễn Xí, đã tôn ông làm Ông Mười, hay còn gọi là Ông Mười Củi. Ý nghĩa của số “mười” trong danh hiệu này mang đến sự vẹn toàn, trọn vẹn, thể hiện tài năng và đức tính của Nguyễn Xí. Ông cũng được xem là người con thứ mười của Đức Vua cha Thủy Quốc Động Đình. Các phong tục và truyền thống về Nguyễn Xí được lưu giữ và tôn vinh tại đền thờ ông.
Một số thông tin khác về Ông Hoàng Mười
Trong truyền thống dân gian, Ông Hoàng Mười cùng với Ông Hoàng Bảy là hai vị thần linh luôn được tôn vinh và về ngự đồng. Ông Hoàng Mười được xem là người được Vua Mẫu ủy thác chấm lính và nhận đồng, khác biệt với Ông Hoàng Bảy, người thường được biết đến với phong thái hào hoa và tài năng văn chương.
Khi về ngự đồng, Ông Hoàng Mười thường mặc áo vàng, thường có hình rồng uốn lượn thành chữ thọ, đầu đội khăn xếp và thắt lét vàng, cài chiếc kim lệch màu vàng kim. Ông thường thực hiện các hành động khác nhau như múa cờ xông pha chinh chiến, sử dụng quạt như một cây bút để viết văn thơ, hoặc cầm dải lụa vàng như một cách biểu hiện việc hỗ trợ người dân trong lao động hàng ngày, được coi là cách kéo tài lộc về cho bản đền. Như Ông Hoàng Bảy, ông cũng thường cầm hèo lên ngựa để chấm lính, và người dân thường dùng tờ tiền 10.000₫ màu đỏ vàng làm lá cờ, cài lên đầu ông để tôn vinh ông.
Khi ông về ngự đồng, thường có sự dâng đại chè xanh, miếng trầu vàng cau đậu, và thuốc lá, là những sản vật đặc trưng của quê hương ông. Ngoài ra, ông cũng thường cung văn tấu những điệu Hò Xứ Nghệ mượt mà và êm tai để làm cho không khí vui tươi và ấm áp hơn.
Căn Ông Hoàng Mười là một khái niệm trong tâm linh dân gian, đồng nghĩa với việc một người được coi là có duyên với Ông Hoàng Mười. Theo quan điểm này, mỗi người có số mệnh và số phận riêng được xác định từ trước bởi vận mệnh và nghiệp duyên từ kiếp trước. Những người được coi là có căn duyên với Ông Hoàng Mười thường được xem như là những người đã có một mối liên kết đặc biệt với thần linh này từ kiếp trước, và được chọn để trả ơn ân duyên đã nhận được từ Thần.
Theo quan điểm này, người có căn duyên sẽ dần dần nhận biết được dấu hiệu và nguyên tắc dẫn đường từ Thần Ông Hoàng Mười, hướng dẫn họ tìm đến chân gốc của số mệnh và nghiệp duyên của mình. Điều này thường được xem như là một hành trình tìm kiếm và khám phá bản chất sâu thẳm của bản mệnh, và sẽ đến một thời điểm nào đó trong cuộc đời, họ sẽ khởi duyên được và được dẫn đường bởi Thần Ông Hoàng Mười để thực hiện mục tiêu và báo đáp ân duyên đã nhận được.
Có một số dấu hiệu có thể giúp nhận biết xem một người có căn duyên với Thánh Ông Hoàng Mười hay không, và dưới đây là một số điểm cơ bản:
Nhưng quan trọng nhất, mỗi người có thể có những cảm nhận khác nhau về việc có căn duyên với Thánh Ông Hoàng Mười, dựa vào những trải nghiệm và quan hệ cá nhân của họ. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất vẫn là giữ vững truyền thống tôn trọng và biết ơn người đã gieo mầm lòng từ bi và lòng nhân ái.
Các đền thờ Ông Hoàng Mười được tôn vinh khắp nơi từ Bắc đến Nam, nhưng ba địa điểm nổi tiếng nhất là Đền Chợ Củi ở Hà Tĩnh, Mỏ Hạc Linh Từ ở Nghệ An và Đền Dinh Đô Quan Hoàng Mười ở Hà Tĩnh.
Đền Chợ Củi, hay còn gọi là đền Hoàng Mười, nằm tại xã Xuân Hồng, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Nơi đây hằng năm thu hút nhiều du khách đến thăm và thực hiện lễ thờ cúng, hy vọng nhận được sự phúc lộc và bình an.
Đây là một ngôi đền có niên đại từ năm 1634, xây dựng từ thời hậu Lê tại làng Xuân Am, xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Sau nhiều lần tu bổ, đền hiện nay gồm ba toà chính: Thượng điện, Trung điện và Hạ điện.
Mộ đức thánh Hoàng Mười cũng nằm trong khu di tích Mỏ Hạc Linh Từ ở xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Theo truyền thống, đây được cho là nơi an nghỉ của ông Nguyễn Duy Lạc, một hiện thân của Thánh Hoàng Mười.
Ngày 23/11/2014 tại phường Trung Lương, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh, Đền Dinh Đô Quan Hoàng Mười đã được khánh thành. Đền này được xây dựng từ thời kỳ Nhà Lý vào khoảng năm 1060, tọa lạc tại ngã ba giữa Kênh nhà Lê, Sông La và Sông Lam, gần vùng ngoài đê La Giang.
Chúng ta đã cùng nhau khám phá về Quan Hoàng Mười qua hàng loạt thông tin và thần thoại đặc sắc.
Hy vọng rằng những kiến thức này đã giúp bạn hiểu rõ hơn về vai trò, tầm quan trọng và huyền thoại iên quan đến Quan Hoàng Mười. Dù là trong lịch sử hay trong tâm trí của người dân, nhân vật này luôn gắn liền với những câu chuyện huyền bí và sức mạnh tinh thần.
Hãy tiếp tục khám phá và truyền bá những giá trị văn hóa truyền thống này để giữ gìn và phát triển di sản văn hóa của dân tộc. Cảm ơn bạn đã đồng hành cùng chúng tôi trong hành trình khám phá về Quan Hoàng Mười!
(TG) – Hiện nay, (nhất là sau Tết Tân Sửu), cứ mỗi sớm mai thức dậy, mở tivi hay vào mạng xã hội, mọi người đều hồi hộp và lo lắng khi nhận thông tin về dịch bệnh Covid-19 đang tái phát trở lại. Những tin đại loại như: "Theo thông tin từ Ban chỉ đạo Quốc gia Phòng chống dịch covid-19, sáng nay, ngày..., lại có thêm 3 ca mắc mới, trong đó, 1 ca nhập cảnh và 2 ca lây nhiễm trong cộng đồng". Vậy từ cộng đồng ở đây được hiểu thế nào?
Cộng đồng là một từ Hán Việt hai thành tố. Cộng (共), có nghĩa là "chung vào, cùng nhau", đồng (同)có nghĩa "cùng (như một)". Cộng đồng có nghĩa gốc là "cùng chung với nhau" và từ đó, có nghĩa (đang được sử dụng) trong tiếng Việt hiện nay là "toàn thể những người cùng sống, có những điểm giống nhau, gắn bó thành một khối trong sinh hoạt xã hội" (Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học, NXB Đà Nẵng, 2020).
Cộng, với nghĩa là "chung, cùng", tiếng Việt còn có các từ kết hợp với thành tố này. Cộng hoà (hoà: cùng với nhau) là danh từ hoặc tính từ, "chỉ [chính thể] có quyền lực tối cao (không thuộc về vua chúa mà) thuộc về các cơ quan dân cử". Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chính là Nhà nước Công Nông đầu tiên của Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám 1945 mang đặc trưng đó. Cộng cư (cư: ở), có nghĩa "[các dân tộc] sống cùng, sống chung trên một vùng đất, một địa bàn" (đồng nghĩa với quần cư). Ví dụ: Nơi đây, là nơi cộng cư của 3 dân tộc thiểu số ít người nhất. Cộng sinh (sinh: sống) chỉ "[sinh vật không cùng một loài] sống chung và cùng làm lợi cho nhau". Chẳng hạn, các sinh vật trong quá trình chung sống, chúng cung cấp cho nhau các điều kiện cần thiết đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển liên tục, từ đó, các đối tác đều cùng hưởng lợi cho sự sinh tồn của chúng; cộng sự (sự: việc làm) chỉ "những người cùng làm chung một nhiệm vụ trong một tổ chức". Ví dụ: Ông ấy đã cùng với các cộng sự hoàn thành công trình này; v.v.
Trở lại với từ cộng đồng, ta thấy có nhiều kết hợp mở rộng: cộng đồng xã hội (xã: nhiều người cộng lại, hội: họp lại), chỉ "tập đoàn người rộng lớn có những dấu hiệu, đặc điểm xã hội chung về thành phần giai cấp, nghề nghiệp, đặc điểm sinh tụ và cư trú"; cộng đồng làng xã là “tập hợp những người sống theo quan hệ xóm làng ở nông thôn”; cộng đồng ngôn ngữ chỉ “tập hợp những người cùng nói một ngôn ngữ nào đó”; cộng đồng người Chăm là “tập hợp tộc người Chăm với sự khác biệt về ngôn ngữ, phong tục, tập quán...”; cộng đồng người Việt ở nước ngoài chỉ “những người gốc Việt hiện không sinh sống ở trong nước mà đang ở các quốc gia khác”; Cộng đồng các nước nói tiếng Pháp - Cộng đồng Pháp ngữ là “các quốc gia có sử dụng tiếng Pháp là ngôn ngữ chính hoặc ngôn ngữ thứ hai...”; v.v.
Khi báo chí viết "Hôm nay, Việt Nam không phát hiện ra một ca nhiễm virus corona nào trong cộng đồng", thì từ "cộng đồng" ở đây được hiểu là "tất cả những ai đang sống trong chính thể nước Việt Nam (theo phạm vi cùng một lãnh thổ có biên giới quốc gia) nói chung" (phân biệt với người nhập cảnh vào Việt Nam từ nước khác). Nhưng nếu viết "Hải Dương hay TP Chí Linh (cũng thuộc Hải Dương) hôm nay không có ca nhiễm nào trong cộng đồng" thì người viết đã hạn chế đối tượng sang một điểm quy chiếu hẹp hơn và "cộng đồng" ở đây được "khoanh vùng" chỉ Hải Dương hoặc TP Chí Linh (2 đơn vị địa danh thuộc một tỉnh) sau khi đã có sự cô lập, theo dõi. Thậm chí, khi nói "Sau khi bệnh nhân số N được phát hiện, chính quyền sở tại đã tạm cách li khu phố X để theo dõi dịch bệnh trong phạm vi cộng đồng" thì cộng đồng (đang được nói đến) chỉ trong một phạm vi rất hẹp (một khu phố hay một thôn bản, một phường hay một xã...).