Tuy nhận được sự giúp đỡ rất lớn của Trung Quốc trong chiến tranh Đông Dương và Chiến tranh Việt Nam, các rạn nứt trong quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Trung Quốc đã bắt đầu thể hiện từ năm 1968. Việt Nam nhất định cùng lúc giữ mối quan hệ nồng ấm với cả Moskva lẫn Bắc Kinh trong khi mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc đã lên cao. Bất đồng quan điểm giữa Việt Nam và Trung Quốc về cách thức tiến hành cuộc chiến với Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam trở nên rõ rệt. Trung Quốc muốn Việt Nam chỉ tiếp tục chiến tranh du kích có giới hạn chống Hoa Kỳ, trong khi Việt Nam muốn tiến hành chiến tranh quy mô để thống nhất đất nước.[14] Và hơn thế nữa, Việt Nam muốn trực tiếp đàm phán với Hoa Kỳ, không cần thông qua một nước nào làm trung gian.[15] Sau sự kiện Tết Mậu Thân, Việt Nam bắt đầu đàm phán trực tiếp với Hoa Kỳ, trong khi đó Trung Quốc phản đối.[14]
Chiến tranh biên giới Việt–Trung: cuộc chiến đẫm máu giữa các ‘đồng chí’
Ngày 17/2/1979 được đánh dấu là thời điểm bắt đầu cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Quốc tại vùng biên giới hai nước. Đó là một cuộc chiến ngắn nhưng đẫm máu giữa những “đồng chí”, đồng minh một thời.
Lúc bấy giờ, Việt Nam vừa thống nhất đất nước sau Chiến tranh Việt Nam thì lại phải lâm vào cuộc chiến với Khmer Đỏ ở Campuchia. Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình gọi Việt Nam là “tiểu bá” và rắp tâm “dạy cho Việt Nam một bài học”.
Chiến tranh nổ ra trên toàn tuyến biên giới vào ngày 19/2/1979, nhưng trước đó, trong tháng 1 và 2 cùng năm, Trung Quốc đã thực hiện hàng trăm vụ xâm phạm vũ trang vào lãnh thổ Việt Nam. Phía Trung Quốc gọi cuộc chiến này là Đối Việt tự vệ hoàn kích chiến (Chiến tranh tự vệ đánh trả Việt Nam), còn phía Việt Nam thoạt tiên gọi là Cuộc chiến chống bè lũ bành trướng Trung Hoa.
Khi đã hết chiến tranh, trong nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, trước nhu cầu củng cố quan hệ với Trung Quốc, chính quyền Việt Nam đã tránh làm đậm thông tin cuộc chiến này, tên cuộc chiến cũng đã thay đổi.
Về sau, tên gọi thường được biết đến nhiều nhất là Chiến tranh bảo vệ biên giới phía bắc năm 1979. Tên của “kẻ thù Trung Quốc” cũng ít được nhắc đến một cách chính thức, như cách mà chính quyền Việt Nam hay nhắc tới Pháp, Nhật, Mỹ trong các cuộc chiến trước đó.
Các lễ kỷ niệm cuộc chiến không được tổ chức long trọng, với sự tham gia của các lãnh đạo cấp cao nhất của trung ương như các “lễ mừng chiến thắng” thường thấy tại Việt Nam.
Trong khi đó, người dân hằng năm vẫn tưởng nhớ, với các hoạt động dâng hương tại Hà Nội và nhiều nơi.
Tinh thần chống Trung Quốc của người dân trong các dịp này thường được chính quyền Việt Nam theo dõi chặt chẽ với sự cảnh giác cao độ để không “bị thế lực thù địch lợi dụng” hoặc “tránh các diễn biến xấu, vượt kiểm soát”.
Trong những năm gần đây, báo chí Việt Nam nhắc đến cuộc chiến này nhiều hơn, với tên gọi “Trung Quốc” được đề cập, nhưng vẫn theo tinh thần chỉ đạo là “tránh làm căng thẳng quan hệ hai nước”.
Cuộc chiến giữa “những đồng chí xã hội chủ nghĩa” Việt Nam và Trung Quốc là một cuộc chiến ngắn nhưng đẫm máu và kỳ lạ, khi cả hai bên đều tuyên bố thắng lợi.
Trước và sau chiến tranh, quan chức hai bên vẫn gọi nhau là “đồng chí”, vẫn ôm nhau như những bằng hữu, huynh đệ.
Chiến tranh biên giới Việt – Trung thường được xác định diễn ra từ ngày 17 tháng 2 đến 16 tháng 3 năm 1979.
Kết thúc, Trung Quốc tuyên bố đã hoàn thành các mục tiêu chính trị, quân sự và kinh tế nên chủ động rút lui.
Trong khi đó, phía Việt Nam cho rằng họ đã đánh lùi được Trung Quốc.
Nguồn hình ảnh, AFP/Getty Images
Mỗi bên đưa ra các con số thiệt hại khác nhau, nhưng theo số liệu phương Tây, phía Trung Quốc có khoảng 20.000 – 28.000 người thiệt mạng, Việt Nam có khoảng 20.000 người chết hoặc bị thương.
Trên thực tế, cuộc xung đột biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc còn kéo dài suốt thập niên 1980, với các vụ đụng độ giữa bộ binh và các màn pháo kích liên miên giữa hai bên.
Xung đột chỉ thực sự chấm dứt khi hai nước bình thường hóa quan hệ vào năm 1991.
Từ đó đến nay, các mâu thuẫn về lãnh thổ, lãnh hải giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn tiếp tục tồn tại.
Tuy nhiên, lãnh đạo hai nước vẫn không ngừng nêu cao luận điệu về tình anh em, đồng chí.
(LLCT) - Khu vực Nam Á gồm 8 nước(1), có vị trí địa chiến lược quan trọng của châu Á và thế giới. Trong đó, Ấn Độ là một nước lớn, có vị thế quan trọng trên trường quốc tế. Pakítxtan, Ápganítxtan, Xri Lanca là cửa ngõ chiến lược giữa tiểu lục địa Ấn Độ với thế giới. Bởi vậy, khu vực này luôn thu hút sự quan tâm của các nước lớn, nhằm phục vụ mục tiêu chiến lược toàn cầu.
1. Điều chỉnh chiến lược của các nước lớn tại Nam Á
Ấn Độ: Nhờ những thành tựu của cuộc cải cách kinh tế dưới thời Thủ tướng N.Rao, kinh tế Ấn Độ có bước phát triển mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân khoảng 6,2% trong thập niên 90(2)và tính đến nay, GDP của Ấn Độ đã đạt 1,88 nghìn tỷ USD, đóng góp khoảng 80% tổng GDP toàn khu vực. Ấn Độ sở hữu công nghệ tên lửa hạt nhân, có công nghệ vệ tinh hiện đại, lực lượng hải quân mạnh và nền công nghiệp quốc phòng phát triển.
Mục tiêu chiến lược của Ấn Độ là củng cố vị trí cường quốc khu vực và xa hơn là trở thành một trung tâm quyền lực của thế giới. Do đó, Ấn Độ một mặt tiếp tục nâng cao nội lực, củng cố quan hệ láng giềng và khu vực Nam Á, đẩy mạnh quan hệ với khu vực Đông Á thông qua “Chính sách hướng Đông”. Ấn Độ thực hiện chính sách can dự tích cực và ngoại giao kinh tế nhằm duy trì ảnh hưởng nổi trội trong khu vực. Hiện nay, Ấn Độ đã xây dựng ảnh hưởng đáng kể ở Nêpan, Butan, Manđivơ; giải quyết bất đồng, tranh chấp với Bănglađét; thúc đẩy tiến trình đàm phán hoà bình với Pakítxtan; tích cực thúc đẩy hợp tác với những nước trong khu vực qua các cơ chế hợp tác khu vực như Sáng kiến hợp tác kinh tế và kỹ thuật đa ngành Vịnh Bengan (BIMSTEC), Hiệp hội hợp tác các nước khu vực Nam Á (SAARC), Hiệp định khu vực thương mại tự do (SAFTA)...
Đồng thời, Ấn Độ gia tăng cạnh tranh ảnh hưởng với các nước lớn tại khu vực. Với Mỹ, Ấn Độ điều chỉnh chính sách theo hướng thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược nhằm tạo thế trong quan hệ với các nước lớn khác, tranh thủ thị trường, vốn và khoa học công nghệ, có điều kiện tiếp cận kho nhiên liệu hạt nhân thế giới và kỹ thuật hạt nhân, từ đó mở rộng hợp tác năng lượng hạt nhân với các nước có tiềm năng hạt nhân, kiềm chế Pakítxtan và đối phó với mối đe dọa từ Trung Quốc. Với Trung Quốc, Ấn Độ thực hiện chính sách vừa hợp tác vừa cạnh tranh, vừa thúc đẩy trao đổi kinh tế - thương mại, nhưng vẫn luôn giữ thái độ cảnh giác trước ý đồ mở rộng không gian chiến lược của Trung Quốc ở khu vực Nam Á, Trung Á và Ấn Độ Dương, đồng thời còn bất đồng về tranh chấp biên giới và thâm hụt thương mại lớn. Với Nga, Ấn Độ coi trọng tăng cường quan hệ với Nga trên nhiều lĩnh vực, nhất là trong hợp tác năng lượng, an ninh và quốc phòng trên cơ sở hai nước có một số điểm đồng về lợi ích kinh tế-chính trị, an ninh và mối quan hệ truyền thống lâu đời.
Ngoài ra, Ấn Độ tích cực tham gia và phát huy vai trò tại các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế như Liên Hợp quốc, Phong trào Không liên kết, Cấp cao Đông Á… nhằm phát huy vị thế và vai trò trên khu vực và quốc tế. Đáng chú ý, Ấn Độ có nhiều đóng góp tích cực vào quá trình dân chủ hóa và cải tổ Liên Hợp quốc.
Trung Quốc: Nam Á nằm sát khu vực Tây Nam của Trung Quốc, trong đó Trung Quốc cùng chung biên giới với 5 nước và đều có tranh chấp biên giới với những nước này. Vì vậy, khu vực Nam Á có liên quan trực tiếp đến ổn định, an ninh và phát triển của Trung Quốc. Lợi ích lâu dài của Trung Quốc tại khu vực này là kiểm soát khu vực Nam Á nhằm đảm bảo an ninh khu vực Tây Nam, giải quyết vấn đề biên giới với các nước và thực hiện kiềm chế Ấn Độ. Do đó, Trung Quốc ngày càng tìm cách mở rộng không gian chiến lược, tranh giành ảnh hưởng với Ấn Độ tại các nước Nam Á, thành lập vành đai bao vây, kiềm chế Ấn Độ.
Trung Quốc một mặt xây dựng mối quan hệ vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, trong đó cạnh tranh là chính với Ấn Độ, vì Trung Quốc cần Ấn Độ trong cuộc đấu tranh vì một thế giới “đa cực”, cải tổ toàn diện Liên Hợp quốc và chia sẻ điểm đồng với Ấn Độ trong mục tiêu thay đổi cơ cấu kinh tế thế giới và làm chuyển dịch trung tâm kinh tế từ Tây sang Đông và đối với việc giải quyết các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, khủng bố, dịch bệnh… Nhưng Trung Quốc không muốn Ấn Độ giành ghế thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc, mở rộng và cạnh tranh gay gắt về ảnh hưởng, về năng lượng, khai thác tài nguyên môi trường tại khu vực. Trung Quốc còn có những bất đồng lớn với Ấn Độ về kinh tế, biên giới lãnh thổ.
Mặt khác, Trung Quốc đẩy mạnh quan hệ với các nước Nam Á thông qua hai “gọng kìm” trên đất liền (phía Tây là Pakítxtan, Ápganítxtan, Giammu và Cátsơmia (Jammu và Kashmir) và phía Đông là Bănglađét, Xri Lanca…) và “chuỗi ngọc trai” trên Ấn Độ Dương. Theo đó, Trung Quốc thiết lập mối “quan hệ đặc biệt” với Pakítxtan trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế và quốc phòng. Trung Quốc luôn khẳng định quan hệ với Pakítxtan là quan hệ đồng minh, bạn bè truyền thống “đã qua thử thách thời gian”, ủng hộ Pakítxtan trong các vấn đề tranh chấp với Ấn Độ, nhất là vấn đề Cátsơmia, duy trì mối quan hệ hợp tác quân sự chặt chẽ (thường xuyên tập trận chung, là nước cung cấp vũ khí hàng đầu từ máy bay chiến đấu, tàu chiến, tên lửa hiện đại cho Pakítxtan, đặc biệt giúp đỡ và cung cấp công nghệ hạt nhân cho Pakítxtan) và hỗ trợ phát triển kinh tế cho Pakítxtan (kim ngạch thương mại năm 2011 đạt 15 tỷ USD).
Ngoài ra, Trung Quốc duy trì mối quan hệ chặt chẽ với Xri Lanca, Ápganítxtan, Bănglađét… Trung Quốc là nhà đầu tư nước ngoài lớn tại Ápganítxtan với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng trị giá hàng chục tỷ USD và cũng là nước viện trợ và cung cấp vũ khí lớn nhất cho Xri Lanca kể từ năm 2006 đến nay. Trung Quốc còn xây dựng các đường ống dẫn dầu khí và khí đốt ngoài khơi Mianma đến Vân Nam và hệ thống đường bộ, sân bay, cảng biển, vị trí quân sự v.v.. nối liền từ Vịnh Bengan tới tỉnh Vân Nam, tạo ra một mạng lưới liên kết các nước vùng Vịnh Bengan và nối liền tiểu vùng vịnh Bengan với Trung Quốc cắt khu vực tiểu vùng vịnh Bengan với Ấn Độ. Bên cạnh đó, Trung Quốc tăng cường hình thành “chuỗi ngọc trai” trên Ấn Độ Dương với việc đầu tư xây dựng các cảng biển mang lưỡng tính (dân sự và quân sự) từ Cảng Hambantota (Xri Lanca), đến cảng Chittagong Bănglađét và cảng Gwanda (Pakítxtan) và tích cực tăng cường thăm dò dầu khí tại Ấn Độ Dương.
Mỹ: Thời gian đầu sau Chiến tranh lạnh, Nam Á không còn giữ vị trí ưu tiên cao trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Tuy nhiên, việc Mỹ tiến hành cuộc chiến chống khủng bố và nhất là chuyển dần trọng tâm chiến lược sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương nhằm thực hiện “tái cân bằng”, Mỹ đã điều chỉnh chính sách đối với khu vực Nam Á theo hướng ngày càng coi trọng và ưu tiên hơn, thể hiện rõ nét qua mấy điểm sau:
Một là,can dự vào khu vực thông qua các hoạt động chống khủng bố. Sau sự kiện ngày 11-9-2001, với lý do tiêu diệt Ôsama Bin Lađen, lực lượng An Kêđa và Chính phủ Taliban, Mỹ đã tiến hành cuộc chiến tranh can thiệp vào Ápganítxtan. Mục đích của Mỹ là đặt chân vào khu vực Nam Á, khống chế Trung Á - nơi có nguồn dầu lửa lớn thứ hai thế giới sau Trung Đông, kiềm chế Trung Quốc, thu hẹp không gian chiến lược của Nga, phá vỡ liên minh Nga, Trung, Ấn trong Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO). Đồng thời, Mỹ tăng cường quan hệ với Pakítxtan nhằm lôi kéo Pakítxtan đứng trong mặt trận chống khủng bố; kiềm chế sự trỗi dậy của lực lượng Hồi giáo cực đoan tại khu vực. Ngoài ra, thông qua Pakítxtan, Mỹ muốn xây dựng một vành đai “thân Mỹ” gồm các nước Hồi giáo tại khu vực Vùng Vịnh, Tây Á, Trung Cận Đông, giàu tiềm năng năng lượng, dầu mỏ…phục vụ các mục đích chiến lược lâu dài của Mỹ tại khu vực Nam Á - Tây Á.
Hai là,Mỹ cải thiện và tích cực tăng cường quan hệ với Ấn Độ, cả về song phương và đa phương. Điều này xuất phát từ: (1) Mỹ muốn dần đưa Ấn Độ vào quỹ đạo chiến lược của Mỹ tại khu vực Nam Á, Đông Nam Á và Viễn Đông nhằm tranh thủ vị thế nước lớn của Ấn Độ phục vụ cho cuộc chiến chống khủng bố tại Ápganítxtan, cân bằng lực lượng, kiềm chế Trung Quốc và Nga, góp phần thực hiện chiến lược “tái cân bằng” tại châu Á - Thái Bình Dương; (2) phục vụ lợi ích an ninh trên biển và an ninh tại khu vực Viễn Đông, Đông Nam Á của Mỹ do Ấn Độ là quốc gia lớn án ngữ Ấn Độ Dương và nằm giữa hai khu vực trọng điểm chiến lược của Mỹ; (3) lợi dụng “chính sách hướng Đông” của Ấn Độ nhằm bảo đảm an ninh và tự do hàng hải thương mại trên Biển Đông, mở rộng không gian chiến lược Viễn Đông và Đông Nam Á của Mỹ; (4) Mỹ tìm kiếm lợi ích kinh tế trong hợp tác vớiẤn Độ vốn có nguồn tài nguyên phong phú, thị trường lớn, một nước lớn đang phát triển, có thực lực kinh tế, khoa học - kỹ thuật, tham gia vào các nhóm kinh tế lớn, mới nổi trên thế giới như BRICS, G-20.
Nga: Sau Chiến tranh lạnh, Nga dành ưu tiên thấp cho khu vực Nam Á (xếp Nam Á đứng thứ 7/10 ưu tiên của Nga). Tuy nhiên, kể từ đầu thế kỷ XXI, trước những diễn biến mới của tình hình thế giới và khu vực, nhất là thế và lực của Nga đã được tăng cường, Nga điều chỉnh chính sách coi trọng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, dành sự quan tâm hơn đối với khu vực Nam Á, tập trung vào 3 trọng tâm chính: (1) Tăng cường quan hệ với Ấn Độ; (2)can dự công cuộc tái thiết tại Ápganítxtan; (3) lôi kéo lực lượng và xây dựng vành đai an ninh tại các nước Trung Á, giảm thiểu hệ lụy của cuộc chiến chống khủng bố tại Ápganítxtan, Pakítxtan.
Đối với Ấn Độ, Nga chia sẻ nhiều điểm đồng và lợi ích chung, như có lịch sử quan hệ truyền thống tốt đẹp, chung mục tiêu đấu tranh vì một trật tự thế giới đa cực, đều có chung mối đe dọa từ chủ nghĩa ly khai, khủng bố, tôn giáo cực đoan, hơn nữa Ấn Độ còn là thị trường tiềm năng cho ngành công nghiệp quốc phòng của Nga do 60-70% trang thiết bị quốc phòng của Ấn Độ được nhập từ Liên Xô trước đây. Ngoài ra, Nga rất quan tâm đến những tác động từ tình hình Ápganítxtan do có chung biên giới, sự hiện diện của Mỹ và liên quân tại căn cứ Manas (Kyrgyzstan), cũng như các vấn đề khác có ảnh hưởng tới các nước Trung Á (SNG cũ), cửa ngõ sát sườn phía Nam của Nga. Trong cuộc chiến chống Taliban tại Ápganítxtan năm 2001, Nga đã trợ giúp quân sự cho lực lượng Liên minh miền Bắc. Tại Hội nghị quốc tế về Ápganítxtan lần thứ 9 tại Kabul (7-2010), Nga tuyên bố xóa 12 tỷ USD tiền nợ, đồng thời tiếp tục cung cấp trang thiết bị quân sự, đào tạo cán bộ và trợ giúp nhân đạo cho nước này. Nga chủ trương duy trì quan hệ thân thiện với Pakítxtan còn do vị thế của Pakítxtan trong khu vực và thế giới đạo Hồi…
2. Tác động của các nước lớn đối với tình hình chính trị - an ninh khu vực
Sự tác động giữa các nước lớn và giữa các nước lớn với các nước khu vực, ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình chính trị-an ninh khu vực Nam Á. Dưới góc độ tích cực, trước hết nó giúp tăng cường quan hệ hợp tác giữa các nước lớn với các nước khu vực.
Thông qua hợp tác chống khủng bố, Mỹ và Pakítxtan đã thiết lập được quan hệ đồng minh. Mỹ hủy bỏ cấm vận, nối lại viện trợ và thiết lập quan hệ đồng minh với Pakítxtan. Riêng năm 2001, Mỹ viện trợ 600 triệu USD cho Pakítxtan và đến năm 2009, tăng lên 7,5 tỷ USD. Ngoài viện trợ dân sự, Mỹ cũng chi 700 triệu USD cho các hoạt động chống nổi dậy trong năm 2010 và tăng lên 1,2 tỷ USD trong năm 2011. Tháng 10-2010, Mỹ công bố khoản viện trợ quân sự mới cho Pakítxtan trị giá 10 tỷ USD trong 5 năm (2012-2016). Ngoài ra, Mỹ còn có nhiều khoản viện trợ dân sự và quân sự khác.
Quan hệ Mỹ - Ấn bước sang thời kỳ mới, mở đầu bằng chuyến thăm Ấn Độ tháng 3-2000 của Tổng thống Mỹ B.Clinton. Năm 2004, Ấn Độ và Mỹ ký hiệp định hợp tác “Những bước tiếp theo trong mối quan hệ đối tác chiến lược” (NSSP) liên quan đến 3 lĩnh vực: hoạt động hạt nhân dân sự, chương trình không gian, kể cả dân sự, và thương mại công nghệ cao. Từ năm 2005, dưới thời của Tổng thống Mỹ George W. Bush, hai bên tiến hành các cuộc thương lượng cụ thể để tiến tới thỏa thuận về hạt nhân dân sự. Tháng 7-2008, hai bên ký Hiệp định hạt nhân dân sự, khẳng định việc Mỹ chính thức thừa nhận vị thế quốc gia vũ khí hạt nhân của Ấn Độ, đồng thời chính thức nâng mức quan hệ hai nước thành mối quan hệ đối tác chiến lược thực chất. Gần đây nhất, Thủ tướng Ấn Độ N.Modi thăm Mỹ (2014) và Tổng thống Mỹ B.Obama thăm Ấn Độ (2015). Hai bên cam kết cùng nỗ lực xây dựng mối quan hệ đối tác chiến lược mới; nhất trí tăng kim ngạch thương mại hai chiều gấp 5 lần so với mức 100 tỷ USD hiện nay; tăng cường hợp tác trong lĩnh vực an ninh hàng hải, khoa học vũ trụ, ứng phó với các thách thức chung toàn cầu. Mỹ khẳng định quan hệ song phương Mỹ - Ấn giữ vai trò then chốt trong chính sách xoay trục của Mỹ.
Không chỉ thúc đẩy hợp tác song phương, Mỹ cũng xúc tiến hợp tác với Ấn Độ trên các vấn đề quốc tế và diễn đàn đa phương, đáng chú ý Mỹ chính thức chấp thuận Ấn Độ trở thành Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc, ủng hộ Ấn Độ là thành viên chính thức của 4 cơ quan kiểm soát xuất khẩu hạt nhân quốc tế(3); cùng với Ấn Độ và các nước khác trong khu vực Viễn Đông như Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Niu Dilân và Xinhgapo lập thành một vành đai an ninh vòng ngoài để bảo vệ an ninh tại Ấn Độ Dương, trong đó Ấn - Mỹ - Nhật hình thành cơ chế đối thoại an ninh ba bên vào năm 2011. Bên cạnh đó, Mỹ cũng nỗ lực nâng cao vai trò của Ấn Độ trong việc chia sẻ trách nhiệm về các vấn đề kinh tế, chính trị tại Nam Á, Đông Nam Á.
Quan hệ Trung - Ấn phát triển tích cực hơn. Năm 2005, hai nước thiết lập quan hệ đối tác chiến lược. Ngay sau khi nhậm chức (đầu 2013), Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã công bố sáng kiến 5 điểm nhằm cải thiện quan hệ với Ấn Độ và tháng 9-2014 sang thăm Ấn Độ; trong khi Thủ tướng Modi cũng sang thăm Trung Quốc ngay trong năm đầu cầm quyền(5-2015). Hai nước cùng chia sẻ điểm đồng về chống biến đổi khí hậu, cải cách toàn diện Liên Hợp quốc, chống khủng bố, ủng hộ việc tiến trình hòa giải và tái thiết Ápganixtan, mong muốn cán cân kinh tế thế giới chuyển dịch từ Tây sang Đông và đều là thành viên của nhóm BRICS và nhóm kinh tế G-20. Hợp tác kinh tế giữa 2 nước không ngừng gia tăng với thương mại hai chiều đạt 70,59 tỷ USD vào năm 2014.
Hợp tác truyền thống Trung Quốc - Pakítxtan tiếp tục phát triển và trở nên khăng khít hơn, trong bối cảnh Trung Quốc đang muốn tranh thủ Pakítxtan trong việc triển khai sáng kiến “Một vành đai, một con đường”, mở đường sang Ấn Độ Dương, thiết lập tuyến vận chuyển năng lượng mới và ngăn chặn chủ nghĩa khủng bố ở phía Tây Trung Quốc, nhất là vùng Tân Cương; trong khi Pakítxtan cũng muốn tranh thủ nguồn vốn to lớn và công nghệ của Trung Quốc, tăng cường hợp tác an ninh quốc phòng, chống khủng bố, củng cố tiềm lực quốc phòng trước Ấn Độ và thực hiện “Giấc mơ con hổ châu Á” của mình. Đáng chú ý, nhân chuyến thăm Pakítxtan của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (4-2015), hai bên đã thiết lập “quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện trong mọi điều kiện” - được xem như mối quan hệ đồng minh duy nhất của Trung Quốc trên thế giới. Thương mại hai chiều giữa hai nước lên tới 15 tỷ USD năm 2014 và dự kiến sẽ lên 20 tỷ USD vào năm 2017.
Quan hệ Ấn - Nga có bước chuyển biến mới với việc Nga tuyên bố coi Ấn Độ là một thành viên có ảnh hưởng của cộng đồng quốc tế, là ứng viên mạnh và phù hợp với vị trí Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc mở rộng. Tháng 11-2001, Thủ tướng Ấn Độ Vajpayee thăm Nga, ký Tuyên bố về ổn định chiến lược. Hợp tác quân sự - kỹ thuật đóng vai trò nòng cốt trong quan hệ Ấn - Nga. Đến nay, Nga vẫn là nhà cung cấp vũ khí chính cho Ấn Độ (gần 80%, trong đó 70% của không quân và 80% của hải quân và hai nước liên tục gia hạn hiệp định hợp tác quân sự - kỹ thuật từ năm 1994). Ngoài ra, hai bên cũng đang triển khai các dự án công nghệ vũ trụ, khai thác dầu khí… Trên các diễn đàn quốc tế, hai bên cam kết cùng thúc đẩy vai trò điều phối trung tâm của Liên Hợp quốc, sự cần thiết cải tổ Hội đồng Bảo An, thúc đẩy xây dựng một thế giới đa cực, chia sẻ nhiều điểm đồng trong việc xử lý các vấn đề quốc tế, môi trường, không gian, tăng cường hợp tác trong tổ chức BRICS, G-20, cấp cao Đông Á, đặc biệt, hai bên là những thành viên tích cực trong Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), nhất trí giải quyết các điểm nóng tại Trung Đông và Bắc Phi bằng các biện pháp hòa bình và không có sự can thiệp từ bên ngoài.
Việc các nước lớn đều tìm cách tăng cường ảnh hưởng ở khu vực tạo điều kiện cho các nước Nam Á tận dụng cơ hội phục vụ lợi ích quốc gia riêng cũng như xây dựng mối quan hệ cân bằng, không bị ràng buộc quá chặt vào nước lớn nào.
Bên cạnh những tác động tích cực, sự gia tăng cạnh tranh giữa các nước lớn khiến môi trường khu vực trở nên căng thẳng và thiếu ổn định hơn. Sự cọ xát lợi ích giữa các nước lớn sẽ quyết liệt, gay gắt hơn đặt các nước khu vực trước không ít thách thức trong việc tranh thủ mặt hợp tác, hạn chế tác động tiêu cực, không bị lôi kéo hoặc làm con bài trao đổi giữa các nước lớn.
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 8-2015
(1) Khu vực Nam Á gồm 8 nước: Ápganixtan, Bănglađét, Butan, Ấn Độ, Manđivơ, Nêpan, Pakítxtan, Xrilanca.
(2) A. Sengupta: “Fifty years of development policy in India”, Independent India, ICCR & OxfordUniversity Press, 1998, tr. 123.
(3) Nhóm cung cấp hạt nhân, Cơ quan kiểm soát công nghệ tên lửa, Nhóm Úc và Thỏa thuận Wassenaar.
Bạn vui lòng đăng nhập trước khi sử dụng chức năng này.
Chính phủ Joe Biden đánh thuế nặng các tấm quang điện nhập từ Trung Quốc để bảo vệ sản xuất trong nước Mỹ. Ảnh: Thaiheadlines.
Thuế suất chống bán phá giá lên tới 271%
Bốn quốc gia này sẽ phải chịu mức thuế chống bán phá giá từ 21,31% tới 271,28%, số tiền cụ thể tùy thuộc vào từng công ty. Phán quyết cuối cùng sẽ được công bố vào tháng 6/2025.
Đơn cử, tấm quang điện do JinkoSolar của Trung Quốc sản xuất ở Malaysia bị đánh thuế 21,31%, trong khi sản phẩm sản xuất tại Việt Nam bị đánh thuế 56,51%. Tấm quang điện do Trina Solar của Trung Quốc sản xuất tại Thái Lan bị đánh thuế 77,85%.
Bộ Thương mại Mỹ cùng ngày đưa ra thông báo cho rằng việc các sản phẩm quang điện của Đông Nam Á được bán tại Mỹ với giá thấp hơn giá thành sản xuất là không công bằng. Hội đồng Thương mại sản xuất năng lượng Mặt trời Mỹ cáo buộc các công ty quang điện Trung Quốc đặt nhà máy ở 4 quốc gia Đông Nam Á trên bán phá giá sản phẩm trên thị trường, khiến giá trên toàn cầu giảm mạnh và đe dọa lợi ích của các công ty địa phương của Mỹ.
Tuy nhiên, các nhà phê bình chỉ ra rằng do sự phụ thuộc nhiều vào các sản phẩm quang điện của Đông Nam Á, thuế của Mỹ đánh vào sản phẩm này không thể vực dậy ngành công nghiệp địa phương, đồng thời cũng sẽ khiến các nhà nhập khẩu và người tiêu dùng Mỹ phải chịu chi phí cao hơn và gánh chịu thiệt hại.
Đây là lần thứ hai Bộ Thương mại Mỹ đánh thuế sơ bộ đối với các sản phẩm quang điện nhập khẩu từ Đông Nam Á. Ngày 1/10 năm nay, Bộ Thương mại Mỹ đã công bố kết quả phán quyết chống trợ cấp sơ bộ đối với các sản phẩm này. Mức thuế dao động từ 2,85% đến 23,06%, nhìn chung thấp hơn dự đoán của thị trường.
Để tránh thuế bán tháo, các doanh nghiệp quang điện Trung Quốc chuyển dây chuyền sản xuất tấm quang điện sang các nước Đông Nam Á. Ảnh: AFP.
Các công ty Trung Quốc chuyển dây chuyền sang Đông Nam Á
Trên thực tế, kể từ khi Mỹ tuyên bố áp thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với các sản phẩm quang điện của Trung Quốc năm 2012, các công ty quang điện của Trung Quốc đã bắt đầu cân nhắc chuyển hoạt động kinh doanh sang các nước Đông Nam Á không bị ảnh hưởng bởi thuế quan.
Từ năm 2014, các công ty Trung Quốc dần triển khai và mở rộng đầu tư vào Đông Nam Á, thị phần sản phẩm quang điện của Trung Quốc tại Mỹ cũng bắt đầu giảm. Đặc biệt vào năm 2018, xuất khẩu mô-đun quang điện của Trung Quốc sang Mỹ đã giảm tới 90% so với cùng kỳ năm trước.
Năm ngoái, chỉ 0,03% xuất khẩu mô-đun quang điện của Trung Quốc được bán sang Mỹ, trong khi Đông Nam Á chiếm 82% lượng sản phẩm nhập khẩu của Mỹ. Với việc 4 quốc gia Đông Nam Á nổi lên như những “trạm trung chuyển” cho các sản phẩm quang điện của Trung Quốc bán sang Mỹ, việc Washington áp dụng thuế quan đối với họ chỉ còn là vấn đề thời gian.
Hành động thuế quan này của Mỹ nhắm vào các sản phẩm quang điện từ 4 quốc gia Đông Nam Á bắt đầu vào năm 2021. Vào tháng 4 năm đó, Hội đồng Thương mại sản xuất năng lượng Mặt trời Mỹ đã đệ trình kiến nghị lên Bộ Thương mại, yêu cầu một cuộc điều tra chống gian lận đối với các sản phẩm quang điện từ 4 quốc gia Đông Nam Á.
Vào tháng 3/2022, Bộ Thương mại Mỹ đã chính thức khởi động cuộc điều tra này. Tuy nhiên, do năng lực sản xuất của ngành quang điện trong nước Mỹ không đủ, chính quyền Joe Biden tháng 6/2022 đã thông báo sẽ miễn thuế hai năm cho 4 nước Đông Nam Á.
Sản lượng quang điện ở Trung Quốc hiện cung đã vượt quá cầu. Ảnh: Orientaldaily.
Tháng 4/2024, Hội đồng Thương mại sản xuất năng lượng Mặt trời lại đệ đơn lên Bộ Thương mại để yêu cầu điều tra chéo đối với các sản phẩm quang điện từ 4 nước Đông Nam Á. Đơn đã được phê duyệt vào ngày 14/5 và Bộ Thương mại đã chính thức mở cuộc điều tra, đến tháng 10 và tháng 11 đã đưa ra các phán quyết bước đầu.
Điều đáng chú ý là quyết định cuối cùng sẽ do chính quyền Trump 2.0 đưa ra, điều này có thể đồng nghĩa với việc sẽ bị mức thuế suất cao hơn và rào cản thương mại do lập trường cứng rắn của ông Trump về thương mại.
Trên thực tế, các công ty quang điện Trung Quốc đã chuẩn bị cho các biện pháp thuế quan của Mỹ. Trang web Kim loại màu Thượng Hải phân tích rằng kể từ khi hết thời hạn chống bán phá giá và miễn trừ chống bán phá giá vào tháng 6/2024, năng lực sản xuất mô-đun của các công ty Trung Quốc tại Đông Nam Á đang dần chuẩn bị ngừng hoạt động. Tính đến thời điểm hiện tại, phần lớn năng lực sản xuất đã bị đình trệ và chỉ có các sản phẩm tồn kho được bán ra bên ngoài.
Các nhân viên liên quan của JA Solar cho biết, để phản ứng với hành động thuế quan mới nhất của Mỹ, mô-đun đầu tiên của công ty có trụ sở tại Mỹ đã xuất xưởng. Nếu thuế chống bán phá giá tiếp theo của Mỹ đối với tấm quang điện từ 4 nước Đông Nam Á quá cao, công ty sẽ xem xét tung hàng từ các nhà máy ở Mỹ để tránh thuế quan.
Lý do khiến các công ty Trung Quốc kiên trì chuyển sang thị trường Mỹ không chỉ vì Mỹ là thị trường quang điện lớn thứ hai thế giới sau Trung Quốc, mà quan trọng hơn là thị trường trong nước đang phải đối mặt với tình trạng dư thừa công suất nghiêm trọng.
Đóng gói các tấm quang điện để xuất sang Mỹ. Ảnh: Singtao.
Kể từ khi Trung Quốc đề xuất mục tiêu "3060" (giảm phát thải), ngành công nghiệp quang điện đã phát triển nhanh chóng. Ngày càng có nhiều công ty xuyên biên giới tham gia thị trường. Số lượng công ty quang điện đã tăng vọt từ 115.400 năm 2021 lên tới 884.700 vào năm 2022.
Tiếp theo là việc liên tục mở rộng năng lực sản xuất. Quy mô năng lực sản xuất năm 2023 đã gần gấp đôi nhu cầu thị trường. Kể từ đầu năm 2023, giá sản phẩm trong chuỗi công nghiệp quang điện chính liên tục giảm. Giá mô-đun quang điện đã giảm khoảng 49% trong cả năm, trong khi giá vật liệu polysilicon đã giảm 67%. Đồng thời, toàn bộ ngành đã rơi vào cuộc chiến giá cả và cạnh tranh khốc liệt, số liệu báo cáo tài chính xấu đi toàn diện.
Dữ liệu cho thấy trong ba quý đầu năm 2024, 72 công ty quang điện lớn cổ phiếu hạng A đã thực hiện doanh thu 824,619 tỷ NDT, giảm 19,70% so với cùng kỳ năm trước; lợi nhuận ròng chỉ là 9,681 tỷ nhân dân tệ, giảm tới 91,94% so với cùng kỳ năm trước.
Trong tình hình này, tầm quan trọng của thị trường Mỹ đối với các nhà sản xuất quang điện lớn của Trung Quốc là điều hiển nhiên. Báo cáo mới nhất do Grand View Research công bố cho thấy đến năm 2030, tổng công suất quang điện được lắp đặt ở Mỹ sẽ tăng từ 33GW năm 2023 lên 377GW. Thị trường quang điện ở Mỹ dự kiến sẽ đạt 96,6 tỷ USD từ năm 2023 đến năm 2030, tốc độ tăng trưởng là 13,7%/năm.
Rõ ràng, cho dù việc ông Trump lên nắm quyền đã khiến triển vọng của thị trường quang điện trở nên khó lường, “Đạo luật giảm lạm phát” được chính quyền Biden thông qua cũng đối mặt với nguy cơ các khoản trợ cấp quan trọng bị loại bỏ, thị trường Mỹ vẫn sẽ là một miếng bánh khổng lồ mà các công ty quang điện Trung Quốc không thể bỏ qua.
Toàn tuyến biên giới phía bắc của Việt Nam
Cả hai bên cùng tuyên bố chiến thắng
Chiến tranh biên giới 1979, hay thường được gọi là Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979, là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Trung Quốc và Việt Nam, diễn ra vào ngày 17 tháng 2 năm 1979 khi Trung Quốc đưa quân tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới giữa 2 nước.[9]
Chiến tranh biên giới Việt – Trung bắt nguồn từ quan hệ căng thẳng kéo dài giữa hai quốc gia, diễn ra trong khoảng một tháng với thiệt hại về người và tài sản cho cả hai phía.
Cuộc chiến kết thúc khi Trung Quốc tuyên bố hoàn thành việc rút quân vào ngày 16 tháng 3 năm 1979 sau khi Chủ tịch Tôn Đức Thắng bên phía Việt Nam kí lệnh Tổng động viên toàn dân và Trung Quốc đã đánh chiếm các thị xã Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng và một số thị trấn vùng biên. Sau đó cả Trung Quốc và Việt Nam đều tuyên bố đã chiến thắng.
Mặc dù chịu thiệt hại lớn và thất bại trong việc buộc Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia nhưng Trung Quốc đã chứng minh được rằng đối thủ Liên Xô sẽ không trực tiếp tham chiến để bảo vệ đồng minh Việt Nam của mình.[10][11] Cuộc chiến cũng để lại hậu quả lâu dài đối với nền kinh tế Việt Nam và căng thẳng trong quan hệ giữa hai nước. Xung đột vũ trang tại biên giới giữa hai nước vẫn còn tiếp diễn thêm hơn mười năm nữa. Tới năm 1991, sau khi Liên Xô tan rã, Quan hệ ngoại giao Việt – Trung mới chính thức được bình thường hóa.
Cuộc chiến được phía Việt Nam gọi là Chiến tranh bảo vệ biên giới phía bắc, 1979 hay Cuộc chiến chống bè lũ bành trướng phương Bắc. Phía Trung Quốc gọi là Chiến tranh đánh trả tự vệ trước Việt Nam (对越自卫还击战 Đối Việt tự vệ hoàn kích chiến, trên nghĩa rộng là chỉ xung đột biên giới Việt – Trung trong gần mười năm từ năm 1979 đến năm 1989) bởi vì cho đến bây giờ Trung Quốc vẫn cho rằng họ chỉ chống trả cuộc tấn công của Việt Nam.[12]
Nhiều nhà nghiên cứu coi cuộc chiến này là một phần của Chiến tranh Đông Dương lần 3.[13]